tháng 12 2015

Trình bày ý nghĩa nhan đề tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”

a.    Nghĩa tả thực: chiếc thuyền là biểu tượng của bức tranh thiên nhiên đẹp và cuộc sống sinh hoạt của người dân làng chài “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum,đang hướng mặt vào bờ.”

b.    Nghĩa biểu tượng:

–        Là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật.Đó là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời,là không gian sinh sống của gia đình người hàng chài.Cuộc sống gia đình;đông con,khó kiếm ăn,cuộc sống túng quẫn là nguyên nhân làm cho người chồng trở nên cục cằn,thô lỗ và biến vợ thành đối tượng của những trận đòn.Những cảnh tượng đó,những thân phận đó nếu nhìn từ xa,ở ngoài xa thì sẽ không thấy được.

–        Vì ngoài xa nên con thuyền mới cô đơn.Đó là sự đơn độc của con thuyền nghệ thuật trên đại dương cuộc sống,đơn độc của con người trong cuộc đời.Chính sự thiếu gần gũi,sẻ chia ấy là nguyên nhân của sự bế tắc và lầm lạc.Phùng đã chụp được chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm – một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích,một chân lí của sự toàn diện. Nhưng khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ,chứng kiến cảnh đánh đập vợ của người đàn ông kia,anh đã kinh ngạc và vứt chiếc máy ảnh xuống đất.Anh nhận ra rằng,vẻ đẹp ở ngoài xa kia cũng ẩn chứa nhiều oái oăm,ngang trái và nghịch lí. Nếu không đến gần thì chẳng bao giờ anh nhận ra.Xa và gần,bên ngoài và sâu thẳm…đó cũng là cách nhìn,cách tiếp cận của nghệ thuật chân chính.

Soạn bài Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê
NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI
Lê Minh Khuê
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá, thuộc thế hệ những nhà văn bắt đầu sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Các tác phẩm của Lê Minh Khuê ra đời đầu những năm 70 của thế kỷ XX đều viết về cuộc sống chiến đấu của thanh niên xung phong và bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa. Từ sau năm 1975, sáng tác của Lê Minh Khuê đã bám sát những biến chuyển của đời sống, đề cập đến nhiều vấn đề bức xúc của xã hội thời đổi mới. Ngòi bút miêu tả tâm lý của Lê Minh Khuê khá sắc sảo, nhất là khi miêu tả tâm lý phụ nữ.

2. Truyện Những ngôi sao xa xôi viết về ba cô gái thanh niên xung phong làm nhiệm vụ phá bom ở một cao điểm trong thời kì cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ đang diễn ra khốc liệt. Miêu tả các cô gái hằng ngày, hằng giờ đối mặt với hiểm nguy nhưng sức hấp dẫn của truyện không phải ở những chi tiết, sự kiện hồi hộp, nóng bỏng mà ở khả năng miêu tả đời sống tâm hồn con người khá sinh động, sâu sắc của tác giả.

3. Tóm tắt nội dung:
Ba nữ thanh niên xung phong thuộc tổ trinh sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Nhiệm vụ của họ là quan sát khi địch ném bom, đo khối lượng đất đá cần phải san lấp, đánh dấu vị trí các quả bom chưa nổ và phá bom. Công việc của họ hết sức nguy hiểm. Mặc dù vậy, cuộc sống của họ vẫn vẫn có những niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thanh thản, mơ mộng và đặc biệt là gắn bó, yêu thương nhau trong tình đồng đội.
4. Truyện được trần thuật từ ngôi thứ nhất, theo lời kể của Định - nhân vật chính. Sự lưạ chọn vai kể như vậy rất phù hợp với nội dung tác phẩm cũng thuận lợi cho việc miêu tả, biểu hiện thế giới tâm hồn, những cảm xúc và suy nghĩ của ba cô gái.
5. Nhân vật trong truyện là ba cô gái trong tổ rà phá bom. Người kể chuyện cũng là một trong ba cô gái ấy. Từ góc nhìn này, tác giả có điều kiện miêu tả những suynghĩ, tâm trạng của các cô một cách chân thực, cụ thể và gần gũi.
- Cùng chung một tổ, cùng trải qua cuộc sống đầy những khó khăn, hiểm nghèo, họ đã trở thành những con người dũng cảm, can trường, coi những việc đếm bom, phá bom... chỉ là những công việc bình thường hàng ngày. Đó là những người có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc nhưng đồng thời cũng dễ xúc cảm, giàu ước mơ, dễ vui mà cũng dễ trầm tư. Họ thích làm đẹp của cuộc sống của mình và không bao giờ tỏ ra chán nản, thất vọng.
Họ có những điểm chung đồng thời cũng có những nét tính cách riêng: Phương Định nhạy cảm và hồn nhiên, thích mơ mộng, ưa sống với những kỷ niệm của tuổi thiếu nữ vô tư, Chị Thao từng trải hơn nhưng cũng không thiếu những rung động, khát khao của tuổi trẻ, Nho trông có vẻ yếu đuối nhưng cũng rất tinh nghịch.
Xen giữa những trận bom, giữa những câu chuyện của ba chị em trong cuộc sống đời thường nhưng rất nóng bỏng ấy là dòng suy nghĩ lan man của nhân vật "tôi". Từ những suy nghĩ vui vui về các anh bộ đội đến nỗi nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ rất rõ những đồ vật, những kỉ niệm ngày còn ở nhà... Đó là những suy nghĩ rất đời thường nhưng càng làm cho bức tranh chân dung người chiến sĩ thêm sống động. Nhất là đoạn cuối truyện, khi cơn mưa đá đã tan thì niềm vui nhỏ bé của các cô cũng không còn. Cô gái lại đắm chìm và những hồi ức về quê nhà. Bao nhiêu hình ảnh gắn liền với bấy nhiêu kỉ niệm: mẹ, cái cửa sổ, bà bán kem, lũ trẻ, hoa trong công viên... mỗi hình ảnh chỉ kịp vụt qua trong thoáng chốc nhưng rất sắc nét, rất cụ thể.
6. Trong truyện, tác giả sử dụng ngôn ngữ trần thuật phù hợp với nhân vật kể chuyện - cô gái thanh niên xung phong người Hà Nội - tạo cho tác phẩm có giọng điệu và ngôn ngữ tự nhiên, trẻ trung và đầy nữ tính. Những câu văn ngắn, nhịp nhanh tạo được không khí khẩn trương trong hoàn cảnh chiến trường. Ở những đoạn hồi tưởng, nhịp kể chậm lại, gợi nhớ những kỷ niệm của tuổi thiếu niên hồn nhiên, vô tư.
7. Hình ảnh ba cô gái thanh niên xung phong trong truyện ngắn này là hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Có thể nêu những nhận xét khái quát về hoàn cảnh sống và chiến đấu, về tính cách, phẩm chất nổi bật của họ: hoàn cảnh ngặt nghèo, thường xuyên đối mặt với hiểm nguy; hồn nhiên, yêu đời; sẵn sàng đương đầu với thử thách, tình cảm đồng đội cao đẹp...
II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Tóm tắt:
Ba nữ thanh niên xung phong thuộc tổ trinh sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Nhiệm vụ của họ là quan sát khi địch ném bom, đo khối lượng đất đá cần phải san lấp, đánh dấu vị trí các quả bom chưa nổ và phá bom. Công việc của họ hết sức nguy hiểm. Mặc dù vậy, cuộc sống của họ vẫn vẫn có những niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thanh thản, mơ mộng và đặc biệt là gắn bó, yêu thương nhau trong tình đồng đội.
2. Đọc diễn cảm.

DẤU GẠCH NGANG

Bài hướng dẫn 1 : 

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN


1. Công dụng của dấu gạch ngang


Trong mỗi trường hợp sau đây, dấu gạch ngang được dùng để làm gì?


a) Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – mùa xuân của Hà Nội thân yêu […].


(Vũ Bằng)


b) Có người khẽ nói:


– Bẩm, dễ có khi đê vỡ!


Ngài cau mặt, gắt rằng:


 – Mặc kệ!


(Phạm Duy Tốn)


c) Dấu chấm lửng được dùng để:


–  Tỏ ý còn nhiều sự vật, hiện tượng chưa liệt kê hết;


–  Thể hiện chỗ lời nói bỏ dở hay ngập ngừng, ngắt quãng;


– Làm giãn nhịp điệu câu văn, chuẩn bị cho sự xuất hiện của một từ ngữ biểu thị nội dung bất ngờ hay hài hước, châm biếm.


(Ngữ văn 7, tập 2)


d) Một nhân chứng thứ hai của cuộc hội kiến Va-ren – Phan Bội Châu (xin chẳng dám nêu tên nhân chứng này) lại quả quyết rằng (Phan) Bội Châu đã nhổ vào mặt Va-ren; cái đó thì cũng có thể.


(Nguyễn ái Quốc)


Gợi ý:


– a: đánh dấu ranh giới giữa bộ phận chú giải với các bộ phận khác trong câu. (dấu ngoặc đơn và dấu phẩy cũng có công dụng này)


– b: đánh dấu lời thoại trực tiếp


– c: đánh dấu đầu dòng trong thao tác liệt kê


– d: nối các bộ phận thành cặp.


2. Phân biệt dấu gạch ngang với dấu gạch nối


Dấu gạch nối thường dùng để đánh dấu ranh giới giữa các tiếng khi phiên âm tên nước ngoài, ví dụ: Va-ren, A-lếch-xăng, A-ri-xtít,…


Dấu gạch nối không phải là dấu câu như các dấu: chấm, phẩy, chấm lửng, chấm phẩy, gạch ngang,… Khi viết, dấu gạch nối viết ngắn hơn dấu gạch ngang.


II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG


1. Trong mỗi trường hợp dưới đây, dấu gạch ngang có công dụng gì?


a) Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội – là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng…


(Vũ Bằng)


b) Chỉ có anh lính dõng An Nam bồng súng chào ở cửa ngục là cứ bảo rằng, nhìn qua chấn song, có thấy một sự thay đổi nhẹ trên nét mặt người tù lừng tiếng. Anh quả quyết – cái anh chàng ranh mãnh đó – rằng có thấy đôi ngọn râu mép người tù nhếch lên đôi chút rồi lại hạ xuống ngay, và cái đó chỉ diễn ra có một lần thôi.


(Nguyễn Ái Quốc)


c) – Quan  có cái mũ hai sừng trên chóp sọ! – Một chú bé con thầm thì.


–  Ồ! Cái áo dài đẹp chửa! – Một chị con gái thốt ra.


(Nguyễn Ái Quốc)


d) Tàu đi Hà Nội – Vinh khởi hành lúc 21 giờ.


e) Thừa Thiên – Huế là một tỉnh giàu tiềm năng kinh doanh du lịch.


Gợi ý:


– a: đánh dấu bộ phận chú giải


– b: đánh dấu bộ phận chú giải


– c: đánh dấu lời nói trực tiếp của nhân vật và đánh dấu bộ phận chú giải


– d: nối các bộ phận thành cặp


– đ: nối các bộ phận thành cặp


2. Các dấu gạch nối trong các ví dụ dưới đây dùng để làm gì?


–  Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệch từ Béc-lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren…


(An-phông-xơ Đô-đê)


Gợi ý: Đánh dấu ranh giới giữa các tiếng phiên âm tên nước ngoài.


3. Đặt câu có sử dụng dấu gạch ngang:


a) Nói về một nhân vật trong vở chèo Quan Âm Thị Kính.


b) Nói về một cuộc gặp mặt của đại diện học sinh cả nước.


Gợi ý:


a) Thị Kính vốn được sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo nhưng lại về làm dâu nhà Thiện Sĩ – một gia đình địa chủ.


b) Trong buổi gặp gỡ đầu tiên, tôi ngồi cùng với Minh Hải – một học sinh của Cà Mau.

Bài hướng dẫn 2
I. CÔNG DỤNG CỦA DẤU GẠCH NGANG (T.129, 130)
 a)   Đặt ở giữa câu để đánh dấu bộ phận giải thích: (mùa xuân của Hà Nội thân yêu...)
 b)  Đánh dấu lời nói trực tiếp của nhân vật.
 c)   Liệt kê (trong ví dụ này, dấu gạch ngang liệt kê các công dụng của dấu chấm lửng).
 d)  Nối các bộ phận trong hai tên đặt cạnh nhau: Va-ren - Phan Bội Châu. 
II PHÂN BIỆT DẤU GẠCH NGANG VỚI DẤU GẠCH NỐI 
1.   Công dụng của dấu gạch nối Trong ví dụ (d) ở mục I, dấu gạch nói dùng để nói các tiếng trong tên riêng nước ngoài: Va-ren. 
2.   Cách viết dấu gạch nối Dấu gạch nối được viết ngắn hơn dấu gạch ngang. 
III.      LUYỆN TẬP 1.  
 Công dụng của các dấu gạch ngang (t.130, 131)
 a)   Đánh dấu bộ phận giải thích. 
b)  Đánh dấu bộ phận giải thích.
 c)   Đánh dấu lời nói trực tiếp của nhân vật (dấu gạch ngang thứ nhất) và bộ phận giải thích, chú thích (dấu gạch ngang thứ hai). 
d)  Nối các bộ phận trong một liên danh. (Hà Nội - Vinh)
 e)   Nối các bộ phận trong một liên danh (Thừa Thiên - Huế). 
2. Công dụng của các dấu gạch nối.
 -     Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc-lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren... (An-phông-xơ Đô-đê) Nối các tiếng trong tên riêng nước ngoài (Béc-lin, An-dát, Lo-ren). 
3. Đặt câu có dùng dấu gạch ngang. 
a)  Thiện Sĩ - con Sùng ông và Sùng bà - kết duyên cùng Thị Kính, con gái Mãng ông - một nông dân nghèo
. b)  Cuộc gặp mặt của đại diện học sinh cả nước hôm nay quy tụ đầy đủ đại diện các tỉnh thành, đặc biệt là đoàn Bà Rịa - Vũng Tàu.

Miêu tả dòng sông quê em
Con sông Hồng chảy qua quê hương em. Dòng sông đẹp như một dải lụa đào vắt ngang lên tấm áo xanh mướt của đồng bằng Bắc Bộ. Nó đã gắn bó với tuổi thơ ấu của em, làm ấm lòng biết bao trái tim bé nhỏ. Ôi ! Con sông thân thương !

Xa xa, dáng nằm của con sông Hồng vẫn muôn đời đỏ nặng phù sa, thế đứng hiên ngang như rồng cuộn hổ ngồi ngàn năm hiện lên ấm màu hoài niệm. Có lẽ mặt sông thường đỏ thắm như màu thẹn thùng của màu môi thiếu nữ. Ánh bình minh vàng chan hoà trên mặt sông ấm áp. Những đám cỏ non còn ướt đẫm suơng đêm, ngơ ngác trong giấc mộng ngọt ngào . Từng đoàn thuyền giong buồm ra khơi, thả lưới đánh cá. Những tiếng hò, tiếng hát vang lên xáo động cả mặt sông. Trông kìa, các em bé té nước cho nhau cười như nắc nẻ. Chúng bơi lội, chúng lặn ngụp như những chú cá heo. Sông dịu dàng ôm chúng vào lòng như một người mẹ. Sông chảy giữa những bụi râu, bãi mía xanh ngắt. Tiếng sóng vỗ ì oạp vào bờ, như hát, như reo vui cùng chúng em. Hai bên bờ, các cô các bà đem chăn màn ra giặt ra phơi, mồ hôi ướt đẫm tấm lưng gầy…

Ôi dòng sông ! Sông đẹp dịu dàng trong những ngày nắng đẹp, sông trắng xoá trong những cơn mưa bụi mùa hè. Sông đỏ ngầu, ầm ầm, tức giận chảy xiết mỗi khi nước lũ tràn về. Sông muốn cho chúng em cuộc sống yên bình.

Sông ơi ! Sông hãy đưa nước về nuôi sống cho những cánh đồng bốn mùa tươi tốt. Sông hãy đưa cá về nuôi sống những người dân.

Hết !
Đề :  Tuổi thơ của mỗi người thường gắn liền với những kỉ niệm về một ngôi nhà, một mảnh vườn, một góc phố, một sân bóng, một trò chơi, một con sông hay con suối, một cánh đồng, một khu rừng… Em hãy viết bài văn miêu tả một trong những sự vật đó !


Bài làm 02

“Quê hương” – hai tiếng nghe sao thân thương chi lạ! Quê hương là nơi đã có nhiều kỉ niệm đẹp với chúng ta. Với mỗi người quê hương có thể là cánh đồng lúa trĩu bông, là con diều no gió bay cao trên bầu trời xanh thẫm… Còn quê hương của em là ngôi làng nhỏ với dòng sông hiền hòa uốn khúc quanh làng, đã gắn bó với em nhiều kỉ niệm đẹp thời thơ ấu.

Từ lúc còn bé, em đã thích sông (nhà em ở cạnh dòng sông). Em thường ngồi ở bờ sông ôn bài, vẽ, có khi còn làm thơ nữa hoặc là ngắm sông. Quả thật dòng sông quê em đẹp lắm. Sáng sớm, em đi học ngang qua chiếc cầu bắc trên sông. Lúc ấy, dòng sông vẫn còn phủ một màn sương mỏng, im lìm trong giấc ngủ say. Khi em đi học về, sông gờn gợn, lăn tăn như chào em. Em mỉm cười: “ừ, chào sông nhé!” vào lúc trưa hè nắng gắt, cả xóm im lặng, chìm vào giấc ngủ trưa, đế xua đi cái nóng oi ả của mùa hè, em nhảy ùm xuống sông, lặn ngụp trong làn nước mát, trong veo. Dòng sông nhấp nhô, vuốt ve, chơi đùa cùng em. Bây giờ, em đã biết bơi giỏi thế mà nhớ lại lúc trước, buồn cười quá. Lần ấy, em chưa biết bơi, muốn tắm mà chẳng dám xuống nước, chỉ quanh quẩn trên bờ. Nào ngờ trượt chân, té nhào xuống nước. Thế là uống một bụng nước no nê. Còn giờ đây, đã có lúc bạn bè ví em như con rái cá. Mà có bơi giỏi thế mới có thể chơi đùa cùng sông chứ, phải không sông? Em chơi đùa thỏa thích, vớt lục bình cài lên mái tóc sũng nước. Bông hoa tim tím còn vương những giọt nước long lanh thật đẹp. Quà của sông dành cho em đấy!

Lúc hoàng hôn, khi vầng thái dương sắp khuất sau ngọn núi, dòng sông của em mang một màu đỏ sẫm, rất đẹp. Những đàn cá cung vội vã trở về “nhà” bơi thật nhanh làm xao động cả mặt nước. Còn buổi tối cũng thật là đẹp, nhất là vào các đêm trăng sáng. Trăng sáng ngời, tròn vành vạnh như một chiếc đĩa vàng, soi bóng xuống dòng sông. Dòng sông nhận được ánh sáng dìu dịu của trăng trở nên bàng bạc, lấp lánh. Gió thổi lồng lộng, mát mẻ vô cùng. Em ngồi đó, say mê nhìn sông, nhìn dòng sông yêu dâu của em.


Thế đấy! Dòng sông quê em đẹp như thế đấy. Các bạn có thích không? Riêng em, tuy giờ đây đã xa dòng sông thân yêu, sống ở chốn thị thành xa hoa nhưng không bao giờ em quên được dòng sông. Đối với em, sông là một người bạn dễ thương, dịu dàng chứ không lộng lẫy kiêu sa. Sông luôn đem đến sự vui thích cho em. Tối đến, hình ảnh “dòng sông bạc” lấp lánh dưới ánh trăng vỗ về, đưa em vào giấc ngủ êm đềm.

Nhắc đến Nam Cao, ta lại nhớ đến một nhà văn luôn trăn trở về đời, về người, với bao chiêm nghiệm và triết lí sâu sắc trong từng câu từ đậm chất nhân văn. Qua mỗi tác phẩm, Nam Cao để lại trong lòng độc giả mỗi dư vị riêng và đồng cảm riêng. Trong đó, một ý nghĩ rất đời của nhân vật Hộ đã dấy lên câu hỏi rằng mỗi người cần có thái độ như thế nào khi chọn nghề và làm việc: "Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì đã là một sự bất lương... " (Đời thừa). Cùng Blog Làm văn nghị luận tham khảo bài viết để có thái độ chọn nghề với đề bài sau.



Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương và thái độ cần có khi chọn nghề - Blog Làm văn nghị luận


Đề bài: Trong truyện ngắn Đời thừa, Nam Cao đã để nhân vật Hộ nghĩ rằng: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương... ”. 
Ý kiến của bạn về vấn đề này? Theo bạn, mỗi người cần có thái độ như thế nào khi chọn nghề?

Gợi ý


1. Mở bài:

Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Riêng những câu thơ còn xanh
Riêng những bài hát còn xanh


Những tác phẩm nghệ thuật đạt đến chuẩn mực của cái hay, cái đẹp sẽ “vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian và chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Cũng như dù thời gian có trôi thì giá trị của câu nói tưởng chừng giản đơn nhưng đầy ngụ ý của nhân vật Hộ trong "Đời thừa" của nhà văn Nam Cao vẫn luôn gợi nhắc mỗi người cần có thái độ đúng đắn khi chọn nghề và làm việc: "Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương... ".

2. Thân bài:

a. Giải thích:

- Nghề nghiệp: việc mà ta lựa chọn và thực hiện để sản xuất ra những giá trị về vật chất lẫn tinh thần phục vụ cho cuộc sống, là mục tiêu ta theo đuổi, là ước mơ, là thứ gắn bó với ta trong suốt quãng đời của mình.

- "Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương": chỉ sự cẩu thả, thái độ hời hợt, vô trách nhiệm với việc mình làm, làm cho có, không quan tâm đến hậu quả và hệ lụy. Đối với nhà văn Nam Cao, ý thức trách nhiệm đối với công việc chính là thước đo nhân cách con người. Đó là lí do vì sao nhà văn cho rằng "sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương". Bởi nghề nghiệp tượng trưng cho lý tưởng sống của mình, nếu "cẩu thả" sẽ gây ra những hậu quả đáng tiếc. Ví dụ như nếu một bác sĩ cẩu thả thì người bệnh sẽ lâm vào tình trạng hiểm nghèo, một kỹ sư công trình cẩu thả thì biết bao người gặp nguy hiểm...
=> Vậy câu hỏi đặt ra là ta phải chọn nghề nghiệp như thế nào để có thể toàn tâm toàn ý với công việc và hoàn thành tốt trách nhiệm của mình?
=> Lựa chọn nghề nghiệp với thái độ nghiêm túc, chọn nghề mình thích, ước mơ và có khả năng thực hiện, khi đã chọn phải toàn tâm toàn ý làm việc, theo đuổi lý tưởng cao đẹp đó.

b. Chứng minh:

- Tinh thần trách nhiệm là yếu tố then chốt dẫn đến kết quả. Bởi dẫu có tài mà không có tâm thì cũng không thể phát huy được hết khả năng vốn có, công việc không thể đạt được hiệu quả tối ưu. Nếu như đến công việc ta làm - thứ gắn liền với lợi ích của cá nhân ta mà bản thân còn không có trách nhiệm thì làm sao có thể làm chủ cuộc sống của mình, nói gì đến lắng lo cho người xung quanh.

Công việc của mỗi người đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến người khác, đến hiệu quả của cả một hệ thống làm việc, một dây chuyền sản xuất. Bởi chúng ta sống trong một cộng đồng, một xã hội, mà bất cẩn trong công việc tức là thiếu trách nhiệm với cả cộng đồng, với công việc chung của mọi người. Một kĩ sư nhầm lẫn trong thiết kế sẽ kéo theo sự sai sót trong quá trình thi công, công việc sẽ vì thế mà phải đình đốn. Mỗi người tựa như một mắt xích trong guồng máy chung đang hoạt động. Nên vô trách nhiệm trong công việc của bản thân mình cũng đồng thời sẽ là lãng phí không chỉ những của cải vật chất mà cả công sức của người khác, ảnh hưởng đến tất cả mọi người.

Mỗi nghề nghiệp luôn đòi hỏi ở con người một trái tim, lương tâm, ý thức. Bởi vì có những sai lầm sẽ không bao giờ có cơ hội sửa chữa, làm lại.

Dẫn chứng thực tế

Nguyên nhân:
Lối sống nhanh, sống vội, vô cảm, dẫn đến sự ích kỉ, vô tâm, thiếu trách nhiệm, chán nản, bất mãn với công việc mà mình đang làm.

c. Bài học:

Nghề nghiệp, với một số người chỉ là cách thức mưu sinh, cũng có người coi đó là nghĩa vụ lao động để đóng góp và cống hiến, lại có người làm việc vì niềm hứng thú, đam mê. Chúng ta đứng ở góc độ nào để nhìn nhận, điều đó dẫn đến ý thức trách nhiệm đối với nghề của mình.
Nếu xem nghề nghiệp là cách mưu sinh kiếm sống, chúng ta chỉ giới hạn ở mức độ hoàn thành công việc mà không cố gắng sáng tạo nên những điều mới mẻ, hay sẽ vì món lợi trước mắt mà sẵn sàng đánh đổi nhiều thứ.
Khi coi nghề là lý tưởng, là niềm vui, chúng ta sẽ có động lực và hoàn thành tốt trách nhiệm của mình.

=> Cần thận trọng ngay từ lúc lựa chọn nghề nghiệp, để chọn lựa được công việc phù hợp với sở thích, ý muốn của bản thân, không chạy theo số đông, phải xem xét đến khả năng của mình. Bởi chỉ khi chọn nghề mà mình đam mê, ta mới có thể gắn bó với nó một cách bền vững lâu dài, mới có động lực để vượt qua những trở ngại mà bất cứ nghề nào cũng có


=> Chọn nghề là một quyết định quan trọng trong cuộc đời mỗi con người. Bởi vậy, đừng bao giờ vội vàng, hấp tấp hay cẩu thả.

3. Kết.

Quả thật "Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương... ". Quan niệm của nhà văn là một nhận thức đúng đắn về thái độ trách nhiệm của mỗi người đối với nghề nghiệp của mình, ngay từ khi chọn nghề đến cả quá trình gắn bó với nó. Chính điều đó sẽ làm nên cuộc sống đúng nghĩa.

"Sống trên đời sống cần có một tấm lòng"

Soạn bài : Bếp lửa - Bằng Việt
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm 
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm 
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa! 

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói 
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi, 
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy, 
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu 
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! 

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa 
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa 
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà? 
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế. 
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế, 
Mẹ cùng cha công tác bận không về, 
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe, 
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học, 
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc, 
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà, 
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? 

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi 
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi 
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh 
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh: 
"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, 
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ, 
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!". 

Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen, 
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn, 
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng... 

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa 
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ 
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm 
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, 
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi, 
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui, 
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ... 
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa! 

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu, 
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, 
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: 
Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...
I. Phân tích
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN:

I. Tác giả:

– Bằng Việt, tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng – sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây.

– Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.

– Hiện nay ông là chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội.

II. Tác phẩm:

1. Hoàn cảnh sáng tác:

– Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là
sinh viên học ngành luật ở nước ngoài
.

– Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.

2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:

* Nội dung: qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa”
gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động
về người bà và tình bà cháu, đồng thời
thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn
của người cháu đối với bà cũng là đối
với gia đình quê hương đất nước
.

* Nghệ thuật: bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa
biểu cảm với miêu tả tự sự và bình luận
. Thành công của bài thơ còn ở sự
sáng tạo hình ảnh bếp lửa
gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi một kỷ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về bà và tình bà cháu.

3. Mạch cảm xúc và bố cục:

* Mạch cảm xúc: Bài thơ là lời tâm sự của người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về người bà.

Bài thơ được
mở ra với hình ảnh bếp lửa
, từ đó
gợi về những kỷ niệm tuổi thơ
sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vât vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu.
Từ những kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà
, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối cùng, người cháu muốn
gửi niềm mong nhớ về với bà
. Mạch cảm xúc bài thơ
đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm
.

* Bố cục: 4 phần.

– Khổ đầu: hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà.

– 4 khổ tiếp: những kỷ niệm ấu thơ, hình ảnh bà và bếp lửa.

– Khổ 6: những suy nghĩ của tác giả về bà và hình ảnh cuộc đời bà.

– Khổ cuối: nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa.

4. Giải nghĩa từ:

– Đinh ninh: ở đây có nghĩa là nhắc đi nhắc lại cho người khác nắm chắc, nhớ chắc.

– Chiến khu: vùng căn cứ của lực lượng cách mạng hay lực lượng kháng chiến.

B. PHÂN TÍCH BÀI THƠ

1. Lập dàn ý phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt

I. Mở bài:

Giới thiệu tác giả
: Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỷ niệm và mơ ước của tuổi trẻ.

Giới thiệu tác phẩm
: Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi tác giả còn là sinh viên đang du học tại Liên Xô.

– Chủ đề: Bài thơ gợi lại những kỷ niệm về người bà và tình bà cháu sâu sắc, thấm thía.

II. Thân bài:

1. Những kỷ niệm tuổi thơ và tình bà cháu:

a. Dòng hồi tưởng được bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp: Bếp lửa.

– Bếp lửa “chờn vờn sương sớm”. Gợi tả một
hình ảnh bếp lửa có thật
được cảm nhận bằng thị giác ẩn hiện trong sương sớm “chờn vờn”.

– Bếp lửa “ấp iu”. Gợi bàn tay dịu dàng, kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa.

->
Điệp ngữ
“một bếp lửa” +
từ láy
“chờn vờn, ấp iu” gợi lên
hình ảnh sống động, lung linh của bếp lửa
gần gũi, thân thuộc trong mỗi gia đình người Việt Nam.

– Hình ảnh bếp lửa rất tự nhiên đã
đánh thức dòng hồi tưởng
của cháu về bà – người nhóm lửa mỗi sớm mai – một hình ảnh trong bài thơ lúc nào cũng chập chờn, lay động “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Trong lòng đứa cháu đi xa
trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt
, thương người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh “biết mấy nắng mưa”, chữ “thương” đi với “bà” là 2
thanh bằng
đi liền nhau tạo ra âm vang như ngân dài xao xuyến, như nỗi nhớ trải dài của người cháu dành cho bà.

b. Từ đó, bài thơ gợi lại những kỷ niệm tuổi ấu thơ bên người bà:

* Tuổi thơ nhiều
gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn
:

“Đói mòn đói mỏi”

“Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”

Thành ngữ “Đói mòn đói mỏi” –  cái đói dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc của hình ảnh người bố đánh xe chắc cũng gầy khô… gợi
nỗi xót xa ám ảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945
trước ngày cả nước ta vùng lên giành chính quyền. Quá khứ hiện về với hình ảnh những người chết đói đầy trên đường làng. Nhà thơ Bằng Việt với hình ảnh hết sức tiêu biểu đã gợi cho ta thấy một
quá khứ tang thương đầy những thảm cảnh của dân tộc gắn liền với số phận những người dân mất nước
trong đó có cả tác giả. Đọc đến câu thơ này chúng ta hoàn toàn không thấy có một vòm trời cổ tích màu hồng với những ước mơ, những hình ảnh đầy lãng mạn bay bổng của một thời ấu thơ. Tất cả
chỉ còn lại những hình ảnh thương tâm, khốn khổ
.
Giọng thơ trĩu xuống, nao nao
lòng người đọc. Những năm tháng ấy
gây một ấn tượng sâu đậm lay động tâm hồn nhà thơ
ấn tượng về khói bếp
hun nhèm mắt để nghĩ lại đến giờ
sống mũi còn cay
.

– Tuổi thơ ấy còn
có cái gian khổ chung của nhiều gia đình Việt Nam thời kỳ kháng chiến
chống Pháp:

“Mẹ cùng cha công tác bận không về…”

“Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi

“Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”.

Bố mẹ đi công tác xa, cháu ở với bà. Tình cảnh hai bà cháu thật vắng vẻ…

– Khi nhớ về kỷ niệm, dòng hồi tưởng còn gắn với
âm thanh của tiếng chim tu hú
. Âm thanh quen thuộc của chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, cuộn xoáy trong lòng người con xa xứ. Có 11 câu thơ mà âm thanh ấy vang vọng đến 5 lần,
khi thảng thốt, khắc khoải
, có
lúc lại mơ hồ
văng vẳng từ những cánh đồng xa “Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”, khi thì lại rộn về rất gần gũi, tha thiết “Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”. Rồi
có lúc gióng giả kêu hoài
. Điệp ngữ và câu hỏi tu từ đã tạo nên
những cung bậc khác nhau của âm thanh
: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”. Tất cả gợi lên
không gian mênh mông, bao la, buồn vắng
đến lạnh lùng. Trong những cung bậc khác nhau của âm thanh tiếng chim tu hú,
tâm trạng của người cháu mỗi lúc một trở nên da diết, mạnh mẽ
hơn. Bên cạnh bếp lửa hồng, bên cạnh âm thanh của tiếng chim tu hú, hai bà cháu đã gắn bó chia sẻ, chắt chiu những tình cảm ấm nồng suốt 8 năm ròng.

* Tuổi thơ cháu luôn được
sống trong tình yêu thương, đùm bọc, cưu mang trọn vẹn của bà
:

– Bên bếp lửa, “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế” chuyện đời nay, đời xưa…

– Rồi “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe”.

“Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Các từ ngữ như: bà bảo, bà dạy, bà chăm đã diễn tả mọi cách sâu sắc, thấm thía
tấm lòng đôn hậu, tình yêu thương bao la, sự chăm chút của bà
đối với ?????????? 4 lần gọi là tình
bà cháu quấn quýt, yêu thương
.
Bà hiện lên ấm áp, tần tảo, chịu thương, chịu khó
. Bà luôn là
chỗ dựa vững chắc
cho cháu, thay thế và lấp đầy tất cả (cả khát khao học hành và cả hình thành nhân cách).
Bà là sự kết hợp cao quý giữa tình cha, nghĩa mẹ, công thầy
.

– Hình ảnh người bà càng hiện lên rõ nét, cụ thể với
những phẩm chất cao quý
. Trong những năm tháng chiến tranh khó khăn và ác liệt ấy, cơ hàn rồi đến giặc giã, thế nhưng bà vẫn
bình tĩnh
, vững lòng, đinh ninh là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu: “Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh”. Vẫn chỉ có hai bà cháu sớm hôm và bà vẫn vững lòng trước mọi tai hoạ, mọi thử thách khốc liệt của chiến tranh, làm tròn nhiệm vụ hậu phương để người đi xa công tác được yên lòng.

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”

Lời dặn trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố không chỉ giúp ta hình dung rõ ràng giọng nói, tiếng nói, tình cảm và suy nghĩ của bà mà còn làm sáng lên
phẩm chất của người mẹ Việt Nam
. Ở đây
hình ảnh bếp lửa ân cần, ấm cúng và nhẫn nại
của bà hoàn toàn
tương phản với ngọn lửa thù địch
đối với sự sống : “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi“. Bên cạnh ngọn lửa thiêu rụi sự sống của kẻ thù vẫn còn một
ngọn lửa nhen lên một sự sống
khác.

=> Như vậy
mạch cảm xúc xen kẽ lời kể, giọng điệu ngôn ngữ, hình ảnh thơ cứ lan toả dần
, rõ dần lên
giọng thơ chuyển từ trữ tình sang tự sự
. Đó là
giọng kể thủ thỉ, tâm tình, rất nhỏ, rất nhẹ
. Làm cho
dòng cảm xúc miên man
và để lại những
dấu ấn sâu đậm về người bà
. Lời bà văng vẳng bên tai, vẫn đinh ninh trong lòng cháu. Người cháu trong bài thơ tuy phải sống xa cha mẹ, tuy tuổi thơ cơ cực thiếu thốn nhưng em thật hạnh phúc trong vòng tay yêu thương của bà.

=> Tóm lại, làm nên thành công làm nên thành công của đoạn thơ hồi tưởng về bà, qua dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình chính là sự kết hợp, đan xen nhuần nhuyễn giữa các yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự sự. Đây cũng là bút pháp quen thuộc của nhà thơ. Chính sự kết hợp nhuần nhị độc đáo đó khiến hình ảnh của bà thật gần gũi, những mảng tuổi thơ lại hiện về sống động, chân thành và giản dị. Qua đó, trong dòng hồi tưởng về quá khứ, người cháu thể hiện nỗi nhớ thương vô hạn và biết ơn bà sâu nặng…

2. Những suy nghĩ về cuộc đời bà và hình ảnh bếp lửa:

a. Suy ngẫm về cuộc đời bà

– Từ những kỷ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu suy nghĩ vè cuộc đời bà.
Hình ảnh của bà luôn gắn với bếp lửa
:

“Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen

Một lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng …”

Hình ảnh
bếp lửa được thay thế bằng hình ảnh ngọn lửa
cụ thể hơn
mang ý nghĩa ẩn dụ
, tượng trưng cho
ánh sáng, hơi ấm và sự sống
. Cái bếp lửa mà bà nhen sớm sớm, chiều chiều không phải chỉ bằng nhiên liệu người ta vẫn thường dùng nhóm lửa mà đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt,
ngọn lửa của tình yêu thương luôn ủ sẵn trong lòng bà
,
ngọn lửa của niềm tin dai dẳng
,
ngọn lửa thắp sáng lên niềm tin, ý chí, hy vọng và nghị lực
. Điệp ngữ “một ngọn lửa”
nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp
bà dành cho cháu. Phải chăng chính ngọn lửa lòng bà đã nhen lên trong tâm hồn cháu, ý chí, nghị lực và một tình yêu cuộc sống, một niềm tin tươi sáng về ngày mai. Đó là biểu hiện của sức sống muôn đời bất diệt mang niềm yêu thương, ý chí, nghị lực, niềm tin của bà truyền cho cháu. Khái quát hơn, đó là ý chí, là nghị lực, là niềm tin của cả một dân tộc trong thời kỳ lịch sử vô cùng khó khăn đó,  niềm tin về một ngày mai hoà bình, một ngày mai tươi sáng và một tương lai tốt đẹp hơn đang chờ phía trước. Hình ảnh của bà trong tâm hồn nhà thơ không chỉ là người thắp lửa giữ lửa mà còn là người truyền lửa. Lửa ấy là lửa niềm tin, lửa sức sống truyền đến các thế hệ mai sau.

Sự tần tảo và đức hy sinh chăm lo cho người
của bà được tác giả thể hiện trong một chi tiết rất tiêu biểu:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.

+ Cuộc đời bà là một
cuộc đời đầy gian truân, vất vả, nhiều lận đận
, trải qua nhiều nắng mưa tưởng như không bao giờ dứt. Hình ảnh của bà cũng là
hình ảnh của bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh
dù gian truân vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương.

+ Trong khổ thơ thứ sáu, điệp từ “nhóm” được nhắc đi nhắc lại tới bốn lần và mang những ý nghĩa khác nhau. Nó cứ bồi đắp cao dần những nét kỳ lạ và thiêng liêng của bếp lửa. Từ “nhóm” đầu tiên : “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”
nhóm là động từ thể hiện một hành động làm cho lửa bén, cháy lên
ngọn lửa và
một bếp lửa hoàn toàn có thật
có thể cảm nhận bằng mắt thường để xua tan đi cái giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt để nấu chín thức ăn và đó là một bếp lửa rất bình dị có ở mọi gian bếp của làng quê Việt Nam. Thế nhưng từ “nhóm” trong những câu thơ sau : “Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi – Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui – Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” thì từ nhóm lại mang ý nghĩa ẩn dụ. Có nghĩa là bà đã nhóm lên, đã
khơi dậy niềm yêu thương, những ký ức đẹp, có giá trị trong cuộc đời mỗi con người. Bà đã truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tình yêu thương ruột thịt, tình cảm sẻ chia tình đoàn kết với hàng xóm láng giềng và rộng ra nữa là tình yêu quê hương đất nước
. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà khơi dậy cả những ký ức, kỷ niệm tuổi ấu thơ trong cháu để cháu luôn nhớ về nó cũng có nghĩa là nhớ về cội nguồn, nhớ về đất nước quê hương, nhớ về dân tộc mình. Và như vậy
hình ảnh bếp lửa đơn sơ giản dị đã mang ý nghĩa khái quát trở thành ngọn lửa trong trái tim – một ngọn lửa ẩn chứa niềm tin và sức sống của con người
.

b. Suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa : Bếp lửa kỳ lạ và thiêng liêng:

+ Từ đó nhà thơ đã có sự khái quát hình ảnh tất cả các bếp lửa: “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa!” Câu thơ cảm thán với cấu trúc đảo thể hiện
sự ngạc nhiên
, ngỡ ngàng như một khám phá ra một điều kỳ diệu giữa cuộc đời bình dị. Từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một niềm tin dai dẳng về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa.

3. Nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa

– Khổ thơ cuối là
lời tự bạch của người cháu đi xa khi đã trưởng thành
. Nhà thơ đã làm nổi bật sức mạnh cội nguồn ấy. Khoảng cách về không gian, thời gian và khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả không thể làm cháu lãng quên ánh sáng và hơi ấm từ bếp lửa của bà, của quê hương,
không quên được những lận đận đời bà, tấm lòng ấm áp của bà, những tận tuỵ hy sinh vì tình nghĩa của bà… Đó là đạo lý thuỷ chung cao đẹp của con người Việt Nam được nuôi dưỡng trong mỗi tâm hồn con người từ thuở ấu thơ.

– Bài thơ được kết thúc bằng câu hỏi tu từ: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Câu hỏi tu từ ấy gợi cho người đọc cảm nhận như có một nỗi nhớ khắc khoải, thường trực, một nỗi nhớ đau đáu khôn nguôi, luôn nhớ về bà. Nhớ về bà cũng chính là nhớ về quê hương, nhớ về cội nguồn và chúng ta lại bắt gặp tình cảm ấy “Đôi dòng tiễn đưa bà nội” mà tác giả viết khi bà nội qua đời, đó là
những tình cảm kính trọng, biết ơn, là nỗi nhớ thương da diết
của đứa cháu dành cho người bà kính yêu của mình: “Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thương – Dù da dẻ khô đi, tấm lòng không hẹp lại – Giàu kiên nhẫn, bà còn hy vọng mãi – Chỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm”.

III. Kết bài:

– Tác giả đã rất
thành công trong việc sáng tạo một hình tượng vừa mang ý nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng: Bếp lửa
.

Kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận
: giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc, hồi tưởng và suy ngẫm.

– Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa, triết lý thầm kín: những gì thân thiết của tuổi thơ mỗi người đều
có sức toả sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời
. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là một biểu hiện cụ thể của
tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, đất nước
.

* MỘT SỐ CÂU HỎI XOAY QUANH BÀI THƠ

Câu 1: Hãy nêu nhận xét về hình ảnh tượng trưng của hình tượng “bếp lửa”.

Gợi ý: Hình ảnh bếp lửa vốn là hình ảnh thật của bếp lửa mà ngày ngày người bà nhen lửa nấu cơm. Nhưng bếp lửa lại trở thành hình ảnh tượng trưng, gợi lại tất cả những kỷ niệm ấm áp của hai bà cháu. Lửa thành ra ngọn lửa tình yêu, lửa niềm tin, ngọn lửa bất diệt của tình bà cháu, tình quê hương đất nước. Bếp lửa mà người bà ấp iu hay chính là tình yêu thương mà bà nâng niu dành tất cả cho cháu, từ việc dạy cháu làm, chăm cháu học, bảo cháu nghe. Bếp lửa cũng là nơi bà nhóm lên tình cảm, khát vọng cho người cháu. Nhóm lửa do đso cũng vừa có nghĩa thực, vừa có ý nghĩa tượng trưng.

Câu 2: Hình ảnh bếp lửa gợi lại những kỷ niệm nào giữa bà và cháu? Vì sao người cháu có “ngọn lửa trăm tàu, có lửa trăm nhà, có niềm vui trăm ngả mà vẫn không quên nhắc về bếp lửa”?



Gợi ý:

Hình ảnh bếp lửa gợi lại trong lòng cháu kỷ niệm về năm lên bốn tuổi đói kém, bếp khói hun nhèm mắt. Rồi những mùa vải chín, chim tu hú kêu, những câu chuyện kể của bà. Những việc bà dạy bảo, bà chăm cháu học, bà lo lắng cho mọi người. Bếp lửa gợi lại những niềm vui của nồi xôi gạp mới, niềm yêu thương, những tâm tình tuổi thơ. Bếp lửa tượng trưng cho tình cảm vững bền của bà cháu, tình quê hương sâu nặng. Chính vì thế, khi người cháu đi xa, có những niềm vui mới, có những tình cảm mới, có những bến bờ mới, nhưng vẫn không thể quên bếp lửa, nơi ủ sẵn tình cảm bà cháu, quê hương.

Câu 3: Phân tích giá trị nghệ thuật của điệp từ “nhóm” trong khổ thơ sau:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạp mới xẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình cuổi nhỏ”.

– Điệp từ “nhóm” được nhắc lại 4 lần làm toả sáng hơn nét “kỳ lạ” và thiêng liêng bếp lửa. Bếp lửa của tình bà đã nhóm lên trong lòng cháu bao điều thiêng liêng, kỳ lạ. Từ: “nhóm” đứng đầu mỗi dòng thơ mang nhiều ý nghĩa : Từ bếp lửa của bà những gì được nhóm lên, khơi lên ?

– Khơi dậy tình cảm nồng ấm.

– Khơi dậy tình yêu thương, tình làng nghĩa xóm, quê hương.

– Khơi dậy những kỷ niệm tuổi thơ, bà là cội nguồn của niềm vui, của ngọt bùi nồng đượm, là khởi nguồn của những tâm tình tuổi nhỏ.

=> Đó là bếp lửa của lòng nhân ái, chia sẻ niềm vui chung.

II. Trả lời câu hỏi sách giáo khoa bài Bếp lửa - Bằng Việt
I. Đọc – hiểu văn bản 
Câu 1.  a. Bài thơ là lời của người cháu nói về bà, nói về tình yêu thương tha thiết mà bà đã giành cho cháu trong những ngày gian khổ. b. Bài thơ có bố cục bốn phần: - Ba dòng thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng hồi tưởng cảm xúc về bà. - Bốn khổ thơ tiếp theo (từ Lên bốn tuổi đến Chứa niềm tin dai dẳng): Hồi tưởng những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa. - Hai khổ thơ tiếp theo (từ Lận đận đời bà đến thiêng liên – bếp lửa): Suy ngẫm về bà và cuộc đời bà. - Khổ cuối: Cháu đã trưởng thành, đã đi xa nhưng không nguôi nhớ về bà. 
Câu 2. Trong hồi tưởng của người cháu biết bao kỷ niệm thân thương đã được gợi lại:
 - Năm lên bón tuổi là năm đói kém, nhọc nhằn (1945). Nạn đói năm ấy đã trở thành bóng đen ghê rợn ám ảnh cháu. 
- Tám năm ở cùng bà khi che mẹ bận công tác, bà dạy cháu học, dạy cháu làm, bà kể chuyện cháu nghe, chia sẻ với cháu nỗi vắng mẹ, cặm cụi nhóm lửa, nuôi nấng cháu.
 - Năm giặc đốt làng, đốt nhà, bà vẫn vững lòng dặn cháu giữ kín chuyện để bố mẹ yên tâm công tác, bà vẫn sớm chiều nhen nhóm ngọn lửa ủ ấm lòng cháu. Kỷ niệm nào về bà cũng thấm đậm yêu thương.
 Bài thơ đan xen giữa kể là những đoạn tả sinh động, tả cảnh bếp lửa chờn vờn trong sương sớm, tả cảnh đói mòn đói mỏi, cảnh làng cháy, đặc biệt là hình ảnh cặm cụi, tần tảo sớm hôm của bà… Lời kể và tả chứa chan tình yêu thương, lòng yêu ơn của người cháu nơi xa đối với bà. 
Câu 3. 
Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ gấn liền với hình ảnh bà. Hình ảnh bếp lửa nhắc đi nhắc lại đến mười lần. Hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh bà. Sự tần tảo, hy sinh của bà đã trở thành thói quen, hình ảnh ấy khắc ghi trong lòng cháu: “Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”. 
Bà là người nhóm lửa. Ngọn lửa bà nhóm lên mỗi sớm mai là nhóm niềm yêu thương, niềm vui, sưởi ấm lòng cháu. Đứa cháu năm xưa đã lớn khôn, đã tung cánh bay xa tới những chân trời rộng lớn “Có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả” nhưng vẫn không thể quên ngọn lửa của lòng bà. Người lửa lòng đã trở thành kỷ niệm, thành niềm tin thiêng liêng kỳ diệu, nâng bước cháu suốt chặn đường dài. 
Câu 4. 
Hình ảnh bếp lửa gắn với bà mỗi sớm mỗi chiều, trở thành hình ảnh ngọn lửa mang nhiều ý nghĩa: “Rồi sớm mỗi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
 Giờ đây bếp lửa bà nhóm không phải chỉ bằng lá khô bà quét, rơm tạ bà gom, không phải chỉ bằng nhiên liệu mà nó còn được nhóm bằng ngọn lửa của chính lòng bà, ngọn lửa của sức sống, của lòng yêu thương và của lòng tin mãnh liệt. Từ hình ảnh bếp lửa trong đời thường đã trở thành ngọn lửa mang ý nghĩa khái quát. Như vậy, bà không phải chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa lòng cho thế hệ nối tiếp.
 Hình ảnh người bà, người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại, đầy yêu thương hiện lên lấp lánh ánh sáng kỳ diệu trong suốt bài thơ. Cái hay của bài thơ còn ở chỗ đó. 
Câu 5. 
Tình cảm bà cháu trong bài thơ rất sâu nặng. Đây là lời yêu thương tha thiết của người cháu nơi xa đối với bà: “Giờ cháu đã đi xa. 
Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lức nào quên nhắc nhở: 
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...” Tình cảm ấy vượt qua chiều dài của thời gian, chiều rộng của không gian, neo đậu mãi trong trái tim cháu. Tuổi thơ của cháu đã đi qua theo năm tháng, khoảng cách giữa bà và cháu cũng đã xa vời vợi nhưng cháu chẳng lúc nào quên nhắc nhở về bà.
 Tình yêu, lòng biết ơn của cháu đối với người bà cũng chính là lòng biết ơn đối với gia đình, quê hương, đất nước. 

MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget