Soạn bài : Bếp lửa - Bằng Việt
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế,
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!".
Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...
I. Phân tích
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN:
I. Tác giả:
– Bằng Việt, tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng – sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây.
– Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
– Hiện nay ông là chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội.
II. Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác:
– Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là
sinh viên học ngành luật ở nước ngoài
.
– Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.
2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
* Nội dung: qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa”
gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động
về người bà và tình bà cháu, đồng thời
thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn
của người cháu đối với bà cũng là đối
với gia đình quê hương đất nước
.
* Nghệ thuật: bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa
biểu cảm với miêu tả tự sự và bình luận
. Thành công của bài thơ còn ở sự
sáng tạo hình ảnh bếp lửa
gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi một kỷ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
3. Mạch cảm xúc và bố cục:
* Mạch cảm xúc: Bài thơ là lời tâm sự của người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về người bà.
Bài thơ được
mở ra với hình ảnh bếp lửa
, từ đó
gợi về những kỷ niệm tuổi thơ
sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vât vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu.
Từ những kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà
, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối cùng, người cháu muốn
gửi niềm mong nhớ về với bà
. Mạch cảm xúc bài thơ
đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm
.
* Bố cục: 4 phần.
– Khổ đầu: hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà.
– 4 khổ tiếp: những kỷ niệm ấu thơ, hình ảnh bà và bếp lửa.
– Khổ 6: những suy nghĩ của tác giả về bà và hình ảnh cuộc đời bà.
– Khổ cuối: nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa.
4. Giải nghĩa từ:
– Đinh ninh: ở đây có nghĩa là nhắc đi nhắc lại cho người khác nắm chắc, nhớ chắc.
– Chiến khu: vùng căn cứ của lực lượng cách mạng hay lực lượng kháng chiến.
B. PHÂN TÍCH BÀI THƠ
1. Lập dàn ý phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt
I. Mở bài:
–
Giới thiệu tác giả
: Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỷ niệm và mơ ước của tuổi trẻ.
–
Giới thiệu tác phẩm
: Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi tác giả còn là sinh viên đang du học tại Liên Xô.
– Chủ đề: Bài thơ gợi lại những kỷ niệm về người bà và tình bà cháu sâu sắc, thấm thía.
II. Thân bài:
1. Những kỷ niệm tuổi thơ và tình bà cháu:
a. Dòng hồi tưởng được bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp: Bếp lửa.
– Bếp lửa “chờn vờn sương sớm”. Gợi tả một
hình ảnh bếp lửa có thật
được cảm nhận bằng thị giác ẩn hiện trong sương sớm “chờn vờn”.
– Bếp lửa “ấp iu”. Gợi bàn tay dịu dàng, kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa.
->
Điệp ngữ
“một bếp lửa” +
từ láy
“chờn vờn, ấp iu” gợi lên
hình ảnh sống động, lung linh của bếp lửa
gần gũi, thân thuộc trong mỗi gia đình người Việt Nam.
– Hình ảnh bếp lửa rất tự nhiên đã
đánh thức dòng hồi tưởng
của cháu về bà – người nhóm lửa mỗi sớm mai – một hình ảnh trong bài thơ lúc nào cũng chập chờn, lay động “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Trong lòng đứa cháu đi xa
trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt
, thương người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh “biết mấy nắng mưa”, chữ “thương” đi với “bà” là 2
thanh bằng
đi liền nhau tạo ra âm vang như ngân dài xao xuyến, như nỗi nhớ trải dài của người cháu dành cho bà.
b. Từ đó, bài thơ gợi lại những kỷ niệm tuổi ấu thơ bên người bà:
* Tuổi thơ nhiều
gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn
:
“Đói mòn đói mỏi”
“Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”
Thành ngữ “Đói mòn đói mỏi” – cái đói dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc của hình ảnh người bố đánh xe chắc cũng gầy khô… gợi
nỗi xót xa ám ảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945
trước ngày cả nước ta vùng lên giành chính quyền. Quá khứ hiện về với hình ảnh những người chết đói đầy trên đường làng. Nhà thơ Bằng Việt với hình ảnh hết sức tiêu biểu đã gợi cho ta thấy một
quá khứ tang thương đầy những thảm cảnh của dân tộc gắn liền với số phận những người dân mất nước
trong đó có cả tác giả. Đọc đến câu thơ này chúng ta hoàn toàn không thấy có một vòm trời cổ tích màu hồng với những ước mơ, những hình ảnh đầy lãng mạn bay bổng của một thời ấu thơ. Tất cả
chỉ còn lại những hình ảnh thương tâm, khốn khổ
.
Giọng thơ trĩu xuống, nao nao
lòng người đọc. Những năm tháng ấy
gây một ấn tượng sâu đậm lay động tâm hồn nhà thơ
–
ấn tượng về khói bếp
hun nhèm mắt để nghĩ lại đến giờ
sống mũi còn cay
.
– Tuổi thơ ấy còn
có cái gian khổ chung của nhiều gia đình Việt Nam thời kỳ kháng chiến
chống Pháp:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về…”
“Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi
“Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”.
Bố mẹ đi công tác xa, cháu ở với bà. Tình cảnh hai bà cháu thật vắng vẻ…
– Khi nhớ về kỷ niệm, dòng hồi tưởng còn gắn với
âm thanh của tiếng chim tu hú
. Âm thanh quen thuộc của chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, cuộn xoáy trong lòng người con xa xứ. Có 11 câu thơ mà âm thanh ấy vang vọng đến 5 lần,
khi thảng thốt, khắc khoải
, có
lúc lại mơ hồ
văng vẳng từ những cánh đồng xa “Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”, khi thì lại rộn về rất gần gũi, tha thiết “Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”. Rồi
có lúc gióng giả kêu hoài
. Điệp ngữ và câu hỏi tu từ đã tạo nên
những cung bậc khác nhau của âm thanh
: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”. Tất cả gợi lên
không gian mênh mông, bao la, buồn vắng
đến lạnh lùng. Trong những cung bậc khác nhau của âm thanh tiếng chim tu hú,
tâm trạng của người cháu mỗi lúc một trở nên da diết, mạnh mẽ
hơn. Bên cạnh bếp lửa hồng, bên cạnh âm thanh của tiếng chim tu hú, hai bà cháu đã gắn bó chia sẻ, chắt chiu những tình cảm ấm nồng suốt 8 năm ròng.
* Tuổi thơ cháu luôn được
sống trong tình yêu thương, đùm bọc, cưu mang trọn vẹn của bà
:
– Bên bếp lửa, “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế” chuyện đời nay, đời xưa…
– Rồi “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe”.
“Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Các từ ngữ như: bà bảo, bà dạy, bà chăm đã diễn tả mọi cách sâu sắc, thấm thía
tấm lòng đôn hậu, tình yêu thương bao la, sự chăm chút của bà
đối với ?????????? 4 lần gọi là tình
bà cháu quấn quýt, yêu thương
.
Bà hiện lên ấm áp, tần tảo, chịu thương, chịu khó
. Bà luôn là
chỗ dựa vững chắc
cho cháu, thay thế và lấp đầy tất cả (cả khát khao học hành và cả hình thành nhân cách).
Bà là sự kết hợp cao quý giữa tình cha, nghĩa mẹ, công thầy
.
– Hình ảnh người bà càng hiện lên rõ nét, cụ thể với
những phẩm chất cao quý
. Trong những năm tháng chiến tranh khó khăn và ác liệt ấy, cơ hàn rồi đến giặc giã, thế nhưng bà vẫn
bình tĩnh
, vững lòng, đinh ninh là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu: “Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh”. Vẫn chỉ có hai bà cháu sớm hôm và bà vẫn vững lòng trước mọi tai hoạ, mọi thử thách khốc liệt của chiến tranh, làm tròn nhiệm vụ hậu phương để người đi xa công tác được yên lòng.
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”
Lời dặn trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố không chỉ giúp ta hình dung rõ ràng giọng nói, tiếng nói, tình cảm và suy nghĩ của bà mà còn làm sáng lên
phẩm chất của người mẹ Việt Nam
. Ở đây
hình ảnh bếp lửa ân cần, ấm cúng và nhẫn nại
của bà hoàn toàn
tương phản với ngọn lửa thù địch
đối với sự sống : “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi“. Bên cạnh ngọn lửa thiêu rụi sự sống của kẻ thù vẫn còn một
ngọn lửa nhen lên một sự sống
khác.
=> Như vậy
mạch cảm xúc xen kẽ lời kể, giọng điệu ngôn ngữ, hình ảnh thơ cứ lan toả dần
, rõ dần lên
giọng thơ chuyển từ trữ tình sang tự sự
. Đó là
giọng kể thủ thỉ, tâm tình, rất nhỏ, rất nhẹ
. Làm cho
dòng cảm xúc miên man
và để lại những
dấu ấn sâu đậm về người bà
. Lời bà văng vẳng bên tai, vẫn đinh ninh trong lòng cháu. Người cháu trong bài thơ tuy phải sống xa cha mẹ, tuy tuổi thơ cơ cực thiếu thốn nhưng em thật hạnh phúc trong vòng tay yêu thương của bà.
=> Tóm lại, làm nên thành công làm nên thành công của đoạn thơ hồi tưởng về bà, qua dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình chính là sự kết hợp, đan xen nhuần nhuyễn giữa các yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự sự. Đây cũng là bút pháp quen thuộc của nhà thơ. Chính sự kết hợp nhuần nhị độc đáo đó khiến hình ảnh của bà thật gần gũi, những mảng tuổi thơ lại hiện về sống động, chân thành và giản dị. Qua đó, trong dòng hồi tưởng về quá khứ, người cháu thể hiện nỗi nhớ thương vô hạn và biết ơn bà sâu nặng…
2. Những suy nghĩ về cuộc đời bà và hình ảnh bếp lửa:
a. Suy ngẫm về cuộc đời bà
– Từ những kỷ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu suy nghĩ vè cuộc đời bà.
Hình ảnh của bà luôn gắn với bếp lửa
:
“Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng …”
Hình ảnh
bếp lửa được thay thế bằng hình ảnh ngọn lửa
cụ thể hơn
mang ý nghĩa ẩn dụ
, tượng trưng cho
ánh sáng, hơi ấm và sự sống
. Cái bếp lửa mà bà nhen sớm sớm, chiều chiều không phải chỉ bằng nhiên liệu người ta vẫn thường dùng nhóm lửa mà đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt,
ngọn lửa của tình yêu thương luôn ủ sẵn trong lòng bà
,
ngọn lửa của niềm tin dai dẳng
,
ngọn lửa thắp sáng lên niềm tin, ý chí, hy vọng và nghị lực
. Điệp ngữ “một ngọn lửa”
nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp
bà dành cho cháu. Phải chăng chính ngọn lửa lòng bà đã nhen lên trong tâm hồn cháu, ý chí, nghị lực và một tình yêu cuộc sống, một niềm tin tươi sáng về ngày mai. Đó là biểu hiện của sức sống muôn đời bất diệt mang niềm yêu thương, ý chí, nghị lực, niềm tin của bà truyền cho cháu. Khái quát hơn, đó là ý chí, là nghị lực, là niềm tin của cả một dân tộc trong thời kỳ lịch sử vô cùng khó khăn đó, niềm tin về một ngày mai hoà bình, một ngày mai tươi sáng và một tương lai tốt đẹp hơn đang chờ phía trước. Hình ảnh của bà trong tâm hồn nhà thơ không chỉ là người thắp lửa giữ lửa mà còn là người truyền lửa. Lửa ấy là lửa niềm tin, lửa sức sống truyền đến các thế hệ mai sau.
–
Sự tần tảo và đức hy sinh chăm lo cho người
của bà được tác giả thể hiện trong một chi tiết rất tiêu biểu:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.
+ Cuộc đời bà là một
cuộc đời đầy gian truân, vất vả, nhiều lận đận
, trải qua nhiều nắng mưa tưởng như không bao giờ dứt. Hình ảnh của bà cũng là
hình ảnh của bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh
dù gian truân vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương.
+ Trong khổ thơ thứ sáu, điệp từ “nhóm” được nhắc đi nhắc lại tới bốn lần và mang những ý nghĩa khác nhau. Nó cứ bồi đắp cao dần những nét kỳ lạ và thiêng liêng của bếp lửa. Từ “nhóm” đầu tiên : “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”
nhóm là động từ thể hiện một hành động làm cho lửa bén, cháy lên
ngọn lửa và
một bếp lửa hoàn toàn có thật
có thể cảm nhận bằng mắt thường để xua tan đi cái giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt để nấu chín thức ăn và đó là một bếp lửa rất bình dị có ở mọi gian bếp của làng quê Việt Nam. Thế nhưng từ “nhóm” trong những câu thơ sau : “Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi – Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui – Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” thì từ nhóm lại mang ý nghĩa ẩn dụ. Có nghĩa là bà đã nhóm lên, đã
khơi dậy niềm yêu thương, những ký ức đẹp, có giá trị trong cuộc đời mỗi con người. Bà đã truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tình yêu thương ruột thịt, tình cảm sẻ chia tình đoàn kết với hàng xóm láng giềng và rộng ra nữa là tình yêu quê hương đất nước
. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà khơi dậy cả những ký ức, kỷ niệm tuổi ấu thơ trong cháu để cháu luôn nhớ về nó cũng có nghĩa là nhớ về cội nguồn, nhớ về đất nước quê hương, nhớ về dân tộc mình. Và như vậy
hình ảnh bếp lửa đơn sơ giản dị đã mang ý nghĩa khái quát trở thành ngọn lửa trong trái tim – một ngọn lửa ẩn chứa niềm tin và sức sống của con người
.
b. Suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa : Bếp lửa kỳ lạ và thiêng liêng:
+ Từ đó nhà thơ đã có sự khái quát hình ảnh tất cả các bếp lửa: “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa!” Câu thơ cảm thán với cấu trúc đảo thể hiện
sự ngạc nhiên
, ngỡ ngàng như một khám phá ra một điều kỳ diệu giữa cuộc đời bình dị. Từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một niềm tin dai dẳng về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa.
3. Nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa
– Khổ thơ cuối là
lời tự bạch của người cháu đi xa khi đã trưởng thành
. Nhà thơ đã làm nổi bật sức mạnh cội nguồn ấy. Khoảng cách về không gian, thời gian và khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả không thể làm cháu lãng quên ánh sáng và hơi ấm từ bếp lửa của bà, của quê hương,
không quên được những lận đận đời bà, tấm lòng ấm áp của bà, những tận tuỵ hy sinh vì tình nghĩa của bà… Đó là đạo lý thuỷ chung cao đẹp của con người Việt Nam được nuôi dưỡng trong mỗi tâm hồn con người từ thuở ấu thơ.
– Bài thơ được kết thúc bằng câu hỏi tu từ: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Câu hỏi tu từ ấy gợi cho người đọc cảm nhận như có một nỗi nhớ khắc khoải, thường trực, một nỗi nhớ đau đáu khôn nguôi, luôn nhớ về bà. Nhớ về bà cũng chính là nhớ về quê hương, nhớ về cội nguồn và chúng ta lại bắt gặp tình cảm ấy “Đôi dòng tiễn đưa bà nội” mà tác giả viết khi bà nội qua đời, đó là
những tình cảm kính trọng, biết ơn, là nỗi nhớ thương da diết
của đứa cháu dành cho người bà kính yêu của mình: “Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thương – Dù da dẻ khô đi, tấm lòng không hẹp lại – Giàu kiên nhẫn, bà còn hy vọng mãi – Chỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm”.
III. Kết bài:
– Tác giả đã rất
thành công trong việc sáng tạo một hình tượng vừa mang ý nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng: Bếp lửa
.
–
Kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận
: giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc, hồi tưởng và suy ngẫm.
– Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa, triết lý thầm kín: những gì thân thiết của tuổi thơ mỗi người đều
có sức toả sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời
. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là một biểu hiện cụ thể của
tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, đất nước
.
* MỘT SỐ CÂU HỎI XOAY QUANH BÀI THƠ
Câu 1: Hãy nêu nhận xét về hình ảnh tượng trưng của hình tượng “bếp lửa”.
Gợi ý: Hình ảnh bếp lửa vốn là hình ảnh thật của bếp lửa mà ngày ngày người bà nhen lửa nấu cơm. Nhưng bếp lửa lại trở thành hình ảnh tượng trưng, gợi lại tất cả những kỷ niệm ấm áp của hai bà cháu. Lửa thành ra ngọn lửa tình yêu, lửa niềm tin, ngọn lửa bất diệt của tình bà cháu, tình quê hương đất nước. Bếp lửa mà người bà ấp iu hay chính là tình yêu thương mà bà nâng niu dành tất cả cho cháu, từ việc dạy cháu làm, chăm cháu học, bảo cháu nghe. Bếp lửa cũng là nơi bà nhóm lên tình cảm, khát vọng cho người cháu. Nhóm lửa do đso cũng vừa có nghĩa thực, vừa có ý nghĩa tượng trưng.
Câu 2: Hình ảnh bếp lửa gợi lại những kỷ niệm nào giữa bà và cháu? Vì sao người cháu có “ngọn lửa trăm tàu, có lửa trăm nhà, có niềm vui trăm ngả mà vẫn không quên nhắc về bếp lửa”?
Gợi ý:
Hình ảnh bếp lửa gợi lại trong lòng cháu kỷ niệm về năm lên bốn tuổi đói kém, bếp khói hun nhèm mắt. Rồi những mùa vải chín, chim tu hú kêu, những câu chuyện kể của bà. Những việc bà dạy bảo, bà chăm cháu học, bà lo lắng cho mọi người. Bếp lửa gợi lại những niềm vui của nồi xôi gạp mới, niềm yêu thương, những tâm tình tuổi thơ. Bếp lửa tượng trưng cho tình cảm vững bền của bà cháu, tình quê hương sâu nặng. Chính vì thế, khi người cháu đi xa, có những niềm vui mới, có những tình cảm mới, có những bến bờ mới, nhưng vẫn không thể quên bếp lửa, nơi ủ sẵn tình cảm bà cháu, quê hương.
Câu 3: Phân tích giá trị nghệ thuật của điệp từ “nhóm” trong khổ thơ sau:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạp mới xẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình cuổi nhỏ”.
– Điệp từ “nhóm” được nhắc lại 4 lần làm toả sáng hơn nét “kỳ lạ” và thiêng liêng bếp lửa. Bếp lửa của tình bà đã nhóm lên trong lòng cháu bao điều thiêng liêng, kỳ lạ. Từ: “nhóm” đứng đầu mỗi dòng thơ mang nhiều ý nghĩa : Từ bếp lửa của bà những gì được nhóm lên, khơi lên ?
– Khơi dậy tình cảm nồng ấm.
– Khơi dậy tình yêu thương, tình làng nghĩa xóm, quê hương.
– Khơi dậy những kỷ niệm tuổi thơ, bà là cội nguồn của niềm vui, của ngọt bùi nồng đượm, là khởi nguồn của những tâm tình tuổi nhỏ.
=> Đó là bếp lửa của lòng nhân ái, chia sẻ niềm vui chung.
II. Trả lời câu hỏi sách giáo khoa bài Bếp lửa - Bằng Việt
I. Đọc – hiểu văn bản
Câu 1. a. Bài thơ là lời của người cháu nói về bà, nói về tình yêu thương tha thiết mà bà đã giành cho cháu trong những ngày gian khổ. b. Bài thơ có bố cục bốn phần: - Ba dòng thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng hồi tưởng cảm xúc về bà. - Bốn khổ thơ tiếp theo (từ Lên bốn tuổi đến Chứa niềm tin dai dẳng): Hồi tưởng những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa. - Hai khổ thơ tiếp theo (từ Lận đận đời bà đến thiêng liên – bếp lửa): Suy ngẫm về bà và cuộc đời bà. - Khổ cuối: Cháu đã trưởng thành, đã đi xa nhưng không nguôi nhớ về bà.
Câu 2. Trong hồi tưởng của người cháu biết bao kỷ niệm thân thương đã được gợi lại:
- Năm lên bón tuổi là năm đói kém, nhọc nhằn (1945). Nạn đói năm ấy đã trở thành bóng đen ghê rợn ám ảnh cháu.
- Tám năm ở cùng bà khi che mẹ bận công tác, bà dạy cháu học, dạy cháu làm, bà kể chuyện cháu nghe, chia sẻ với cháu nỗi vắng mẹ, cặm cụi nhóm lửa, nuôi nấng cháu.
- Năm giặc đốt làng, đốt nhà, bà vẫn vững lòng dặn cháu giữ kín chuyện để bố mẹ yên tâm công tác, bà vẫn sớm chiều nhen nhóm ngọn lửa ủ ấm lòng cháu. Kỷ niệm nào về bà cũng thấm đậm yêu thương.
Bài thơ đan xen giữa kể là những đoạn tả sinh động, tả cảnh bếp lửa chờn vờn trong sương sớm, tả cảnh đói mòn đói mỏi, cảnh làng cháy, đặc biệt là hình ảnh cặm cụi, tần tảo sớm hôm của bà… Lời kể và tả chứa chan tình yêu thương, lòng yêu ơn của người cháu nơi xa đối với bà.
Câu 3.
Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ gấn liền với hình ảnh bà. Hình ảnh bếp lửa nhắc đi nhắc lại đến mười lần. Hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh bà. Sự tần tảo, hy sinh của bà đã trở thành thói quen, hình ảnh ấy khắc ghi trong lòng cháu: “Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.
Bà là người nhóm lửa. Ngọn lửa bà nhóm lên mỗi sớm mai là nhóm niềm yêu thương, niềm vui, sưởi ấm lòng cháu. Đứa cháu năm xưa đã lớn khôn, đã tung cánh bay xa tới những chân trời rộng lớn “Có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả” nhưng vẫn không thể quên ngọn lửa của lòng bà. Người lửa lòng đã trở thành kỷ niệm, thành niềm tin thiêng liêng kỳ diệu, nâng bước cháu suốt chặn đường dài.
Câu 4.
Hình ảnh bếp lửa gắn với bà mỗi sớm mỗi chiều, trở thành hình ảnh ngọn lửa mang nhiều ý nghĩa: “Rồi sớm mỗi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Giờ đây bếp lửa bà nhóm không phải chỉ bằng lá khô bà quét, rơm tạ bà gom, không phải chỉ bằng nhiên liệu mà nó còn được nhóm bằng ngọn lửa của chính lòng bà, ngọn lửa của sức sống, của lòng yêu thương và của lòng tin mãnh liệt. Từ hình ảnh bếp lửa trong đời thường đã trở thành ngọn lửa mang ý nghĩa khái quát. Như vậy, bà không phải chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa lòng cho thế hệ nối tiếp.
Hình ảnh người bà, người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại, đầy yêu thương hiện lên lấp lánh ánh sáng kỳ diệu trong suốt bài thơ. Cái hay của bài thơ còn ở chỗ đó.
Câu 5.
Tình cảm bà cháu trong bài thơ rất sâu nặng. Đây là lời yêu thương tha thiết của người cháu nơi xa đối với bà: “Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lức nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...” Tình cảm ấy vượt qua chiều dài của thời gian, chiều rộng của không gian, neo đậu mãi trong trái tim cháu. Tuổi thơ của cháu đã đi qua theo năm tháng, khoảng cách giữa bà và cháu cũng đã xa vời vợi nhưng cháu chẳng lúc nào quên nhắc nhở về bà.
Tình yêu, lòng biết ơn của cháu đối với người bà cũng chính là lòng biết ơn đối với gia đình, quê hương, đất nước.